Các giải pháp phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020

     
*

Trang chủ Giới thiệu Ban chủ nhiệm Hội đồng khen thưởng kỷ luật Điều lệ Nội quy Thông báo Tin tức - Sự kiện Bồi dưỡng đào tạo Hoạt động phong trào Trao đổi nghiệp vụ Quan hệ quốc tế Khen thưởng Kỷ luật Xem đoàn phí Liên hệ

GÓP Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC 2011- 2020

Về chiến lược phát triển giáo dục, đã có tiền đề quan trọng từ “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ” (được bổ sung năm 2011 ) đã xác định: “giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội, nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đẫy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cơ hội cho mọi công dân được học tập suốt đời”. Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 2011–2012 cũng đề ra. “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”. Nghị Quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng Sản Việt Nam còn khẳng định đường hướng cải cách giáo dục là: “Phát triển nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế trí thức”.

Bạn đang xem: Các giải pháp phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020

Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục 2011– 2020 đã điểm lại tình hình giáo dục giai đoạn 10 năm ( 2001–2010 ) với các thành tựu, những bất cập, yếu kém, các nguyên nhân của thành tựu và bất cập, yếu kém; dự kiến bối cảnh và thời cơ, thách thức đối với giáo dục nước ta trong 10 năm sắp tới (giai đoạn 2011– 2020 ), xác định các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục, cùng các mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2020 và các giải pháp thực hiện.

Qua dự thảo chúng ta thấy được các thành tựu cụ thể của giai đoạn 10 năm qua (2001 – 2010 ) như: tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học tăng nhanh, trong đó mẫu giáo 5 tuổi tăng từ 72% lên 98%, tiểu học từ 94% lên 97%, THCS từ 70% lên 83%,THPT từ 33% lên 50%. Qui mô đào tạo nghề tăng 3.08 lần, trung cấp chuyên nghiệp tăng 2.69 lần, quy mô giáo dục đại học tăng 2.35 lần, nâng tổng số sinh viên tất cả các hệ đào tạo trên một vạn dân đạt 250. Đến năm 2010, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 40%, bước đầu đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển rộng khắp trong toàn quốc đã mở rộng cơ hội học tập cho mọi người, bước đầu xây dựng xã hội học tập, đã xoá được “xoá trắng” về giáo dục mầm non, trường tiểu học, có ở tất cả các xã; các tỉnh huyện có đồng bào dân tộc thiểu số đã có trường PT dân tộc nội trú, PT dân tộc bán trú. Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đã có tiến bộ. Đại bộ phận sinh viên tốt nghiệp đã có việc làm. Chất lượng giáo dục mũi nhọn đã được coi trọng thông qua việc phát triển hệ thống trường chuyên, trường năng khiếu. Cả nước đã hoàn thành mục tiêu xoá mù chữ, đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số, con em các gia đình nghèo, trẻ em gái và các đối tượng thiệt thòi ngày càng được quan tâm. Công tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực theo hướng chuẩn hoá, nhất là trong những năm gần đây. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng nhanh, đạt 20% tổng chi ngân sách giáo dục ngoài công lập cơ bản phát triển rõ rệt, năm học 2010 – 2011, tỷ lệ học sinh, sinh viên theo học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập gồm : nhà trẻ 48.25%, mẫu giáo 32.83%, trung học phổ thông 11.70%, dạy nghề 31.17%, trung cấp chuyên nghiệp 27.24%, và cao đẳng, đại học 15.44%. Cơ sở vật chất nhà trường được cải thiện với tỷ lệ phòng học kiên cố tăng từ 52% năm 2006 lên 71% năm 2010.

Dự thảo cũng đã đánh giá những bất cập và yếu kém như: cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, thiếu liên thông giữa các cấp bậc và trình độ đào tạo, chưa đáp ứng được yêu cầu nhân lực của xã hội. Chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới và so với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực, trên thế giới. quản lý giáo dục vẫn còn nhiều bất cập, còn mang tính bao cấp, ôm đồm, sự vụ chồng chéo, phân tán. Hệ thống pháp luật và chính sách giáo dục thiếu đồng bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung. Một bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đáp ứng được nhiệm vụ giáo dục trong thời kỳ mới. Đạo đức và năng lực của một số bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn thấp. Công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo chưa đáp ứng được các yêu cầu đổi mới giáo dục. nội dung chương trình, phương pháp dạy và học, công tác thi, kiểm tra đánh giá chậm được đổi mới, nhà trường chưa gắn chặt với đời sống kinh tế xã hội, chưa chú trọng phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà trường còn thiếu và lạc hậu. quỹ đất dành cho các cơ sở giáo dục chưa đạt chuẩn qui định. Nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục còn hạn chế.

Qua phần phân tích đánh giá các thành tựu và hạn chế bất cập, yếu kém của dự thảo, nhiều nhà giáo và kể cả bản thân người viết, ngoài việc nhất trí với các điểm đã nêu, thấy cần bổ sung thêm một số ý kiến về mặt tồn tại yếu kém của nền giáo dục Việt Nam như:

- Qui hoạch đầu tư phát triển nền giáo dục nước ta chưa bài bản, thiếu tính hiện đại tiên tiến, nhất là việc qui hoạch đào tạo cấp Cao Đẳng, Đại học theo cấp quốc gia, cấp vùng và cấp địa phương, cũng như các mô hình trường đại học.

- Có sự mất cân đối giữa sự đào tạo chính quy và đào tạo nghề, nên hậu quả là thừa thầy thiếu thợ ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá

- Nặng phát triển theo số lượng hơn chất lượng nên đã để hình thành những cơ sở đào tạo kém chất lượng, nặng tính kinh doanh thương mại có hại lâu dài cho xã hội.

- Đội ngũ giảng viên, nhất là ở cấp đại học, còn chắp vá kém chất lượng, nặng chạy xô kiếm sống hơn là nghiên cứu khoa học để đầu tư soạn thảo giáo trình, cải tiến phương pháp giảng dạy. Có tình trạng thiếu nhiều giảng viên đạt chuẩn. Ngành sư phạm, đào tạo thầy giáo chưa được quan tâm đúng mức. Chưa mạnh dạn về chủ trương và chính sách ưu đãi cần thiết để huy động, thu hút giảng viên Việt kiều, người nước ngoài để nâng chất lượng đào tạo và hiện đại hoá nền giáo dục, đào tạo theo hướng hội nhập quốc tế.

- Nghiên cứu khoa học phục vụ giáo dục, đào tạo còn nặng khuynh hướng minh hoạ thực tiễn hơn là động não sáng tạo từ thực tiễn, nên tính phát minh phát kiến rất hạn chế, tỉ lệ các công trình nghiên cứu khoa học đã qua nghiệm thu, thẩm định bị bỏ xó khá cao vì không áp dụng được vào thực tiễn. Còn nặng tính hình thức, phong trào nghiên cứu khoa học.

- Chậm thay đổi về cơ chế quản lý giáo dục, nhất là quản lý đào tạo cấp đại học. Cụ thể như qui chế thi cử, tuyển sinh “3 chung” không còn phù hợp, nhưng chậm thay đổi, làm hạn chế quyền tự chủ cần thiết của các cơ sở giáo dục đại học. Cơ quan thẩm quyền nhà nước can thiệp quá nhiều vào các cơ sở giáo dục Đại học, làm ảnh hưởng hạn chế đến sự chủ động sáng tạo và tính linh hoạt trong giáo dục đào tạo của cơ sở.

Xem thêm: Đại Học Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy Chữa Cháy (Việt Nam), Trường Đại Học Phòng Cháy Chữa Cháy (Việt Nam)

- Chưa có chính sách ưu đãi cụ thể để thu hút đầu tư của các trường đại học nước ngoài, của người nước ngoài và trí thức Việt kiều trong việc thành lập các cơ sở đào tạo ở việt nam. nhất là đào tạo đại học, đào tạo nghề để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở VN hầu tạo điều kiện đuổi kịp và cạnh tranh với các nền giáo dục trong khu vực.

Về đánh giá những nguyên nhân của thành tựu và bất cập, yếu kém: có lẽ đa số nhất trí với dự thảo về sự quan tâm đầu tư giáo dục của nhà nước ( tổng chi ngân sách nhà nước đã liên tục tăng qua các năm, ý thức trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo và quyết tâm đổi mới của ngành giáo dục và truyền thống hiếu học của dân tộc đã góp phần quan trọng cho các thành tựu giáo dục đào tạo của nước ta. Mặt khác, cũng như đánh giá của dự thảo, mặt bất cập yếu kém xuất phát từ những nguyên nhân như: chưa thể hiện quan điểm nhất quán là “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển” trong thực hiện, tư duy về giáo dục chậm đổi mới, chưa xây dựng tốt và phát huy hiệu quả về công tác quy hoạch, kế hoạch giáo dục từ trung ương đến địa phương, tác dụng khách quan từ tâm lý xã hội.

- Một tồn tại bất cập nữa là, từ “tư duy chiến lược” đúng đắn về định hướng phát triển giáo dục đi đến khâu thực hiện rất chậm trễ, thậm chí bỏ lửng không thực hiện.

Về quan điểm chỉ đạo và mục tiêu phát triển giáo dục: Có lẽ đa số đều thống nhất với định hướng đề ra của dự thảo coi “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu ”; phải huy động cả hệ thống chính trị để chăm lo sự nghiệp phát triển, giáo dục đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển; xây dựng nền giáo dục có tính dân tộc, hiện đại, quán triệt nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, khuyến khích mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục. Đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá và hội nhập quốc tế, chất lượng giáo dục toàn diện được nâng cao, giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành. Thống nhất đây là những quan điểm định hướng mục tiêu phù hợp và cần thiết, vấn đề là triển khai thực hiện sao cho hiệu quả.

Theo tôi, ngoài các giải pháp trên, dự thảo cần cụ thể hoá thêm về mặt vĩ mô, các vấn đề như :

- Qui hoạch chiến lược về các đại học vùng, đại học địa phương và các loại mô hình tổ chức đại học ra sao

- Nên đặt các trường Đại học chất lượng cao, đại học trong điểm ở những địa bàn trọng điểm nào thuận lợi, có môi trường học tập tốt (TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, Cần Thơ, Đà Lạt)

- Nên thu hút đầu tư của nước ngoài vào giáo dục đại học và đào tạo nghề như thế nào ( đầu tư thành lập trường hoặc mở chi nhánh của các học hiệu nổi tiếng của nước ngoài và trên những ngành học chiến lược ra sao để phục vụ CNH, HĐH đất nước.

- Có nên chọn những học hiệu nổi tiếng từ các nước nào ( Anh Quốc, Đức, Hoa Kỳ, Canada, Autralia, Nhật Bản, hay NewZenland ) để mở chi nhánh đào tạo Đại học, ngành kỹ thuật mũi nhọn tại VN để tăng chất lượng nền giáo dục đào tạo VN và tạo khả năng cạnh tranh về dịch vụ đào tạo trong khu vực Đông Nam Á này ?

- Cần có chính sách ưu đãi đặc biệt như thế nào để thu hút đa dạng đội ngũ giảng viên việt kiều và người nước ngoài ( vấn đề thù lao, điệu kiện ăn ở, làm việc và các tiện nghi phục vụ nghiên cứu, giảng dạy ) cho yêu cầu tăng chất lượng giảng dạy, NCKH và đổi mới phương pháp giảng dạy một cách hiệu quả. Đã đến thời điểm “ trải chiếu hoa ” về mặt chính sách để cạnh tranh thu hút chất xám của trí thức cả trong và ngoài nước rồi.

- Nên xây dựng các viện nghiên cứu hiện đại, tiện nghi ra sao để thu hút các nhà khoa học trong nước, Việt kiều và nước ngoài đến đầu tư, làm việc và NCKH ( tại các địa bàn như Đà Lạt, Nha Trang, Phú Quốc..vv)

- Vấn đề tỷ lệ ngân sách nhà nước đầu tư cho các ngành NCKH, nhất là các ngành mang tính mũi nhọn cho phát triển đất nước.

- Về cơ chế tuyển sinh đào tạo, cần tạo sự chủ động cho các cơ sở giáo dục, nhất là giáo dục đại học ra sao ? cơ chế “ 3 chung ” về thi cử, tuyển sinh đại học cao đẳng cần bỏ ngay hay có lộ trình, bao lâu nên cụ thể hoá, chứ không nên nói chung chung mơ hồ. Đã đến lúc phải công nhận “ quyền tự trị đại học ” để các trường Đại học chủ động phát triển.

- Quyền tự trị đại học tới đâu, mở rộng phạm vi như thế nào, cần phải thể chế bằng luật pháp qua luật giáo dục đại học.

Trên đây là một số ý kiến đóng góp vào dự thảo, cần làm rõ và cụ thể hoá vào nội dung các giải pháp của dự thảo “ chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 ”.