Văn bản làng ngữ văn 9

     

Phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân mang tới 2 dàn ý chi tiết, cùng 16 bài phân tích ngắn gọn, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài viết của mình. Nhờ đó, sẽ ngày càng học tốt môn Văn 9 hơn.

Bạn đang xem: Văn bản làng ngữ văn 9


Với 16 bài phân tích Làng, chúng ta sẽ hiểu sâu sắc hơn về tình yêu làng, tình yêu nước của nhân vật ông Hai. Chi tiết mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của tiengtrungquoc.edu.vn để đạt kết quả cao trong các bài kiểm tra, bài thi sắp tới.

Phân tích truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân

Dàn ý Phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân

Dàn ý 1

1. Mở bài

Giới thiệu về truyện ngắn Làng của Kim Lân.

2. Thân bài

* Hoàn cảnh của ông Hai

Người dân làng chợ DầuYêu làng nhưng vì hoàn cảnh phải rời xa làng để đi tản cưÔng Hai luôn nhớ về làng chợ Dầu, nhớ về những ngày cùng anh em làm việcKhoe với mọi người nơi tản cư về sự giàu đẹp, truyền thống đấu tranh của ngôi làng

* Tình huống bất ngờ:

- Làng chợ Dầu ông vẫn luôn thương nhớ, tự hào đi theo giặc.

--> Tình huống bất ngờ, éo le góp phần bộc lộ những vẻ đẹp bên trong con người ông Hai.


* Vẻ đẹp của ông Hai:

- Yêu làng, một lòng hướng về làng:

Luôn nghe ngóng thông tin về làngTự hào, kiêu hãnh về truyền thống đấu tranh của làngKhi nghe tin làng theo giặc: cổ họng nghẹn ắng, giọng lạc đi, đau khổ dằn vặt

--> Cay đắng, tủi nhục khi nghe tin làng theo giặc.

Rạng rỡ, hạnh phúc khi nghe tin cải chính, chạy đi khoe khắp nơi về làng của mình

- Yêu nước, một lòng trung thành với cách mạng:

Đến phòng thông tin nghe tin tức về kháng chiến.Nghe ngóng được những tin chiến thắng của quân ta “ruột gan cứ múa cả lên”.Đứng về phía cách mạng “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”.

3. Kết bài

Khái quát ngắn gọn giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩmLiên hệ tới tình yêu nước, trách nhiệm với đất nước của thế hệ trẻ hiện nay.

Dàn ý 2

a) Mở bài

- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:

Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 - 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc, gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân.Làng (1948) đã thể hiện thành công vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam với làng, với nước trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.

b) Thân bài

* Khái quát về tác phẩm

Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948 - thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.Nội dung cốt truyện: Ông Hai là một người vô cùng yêu quý làng quê mình vì thế khi Pháp đến đánh chiếm ông quyết định ở lại làng làm du kích, làm thanh niên chống giặc dù tuổi đã cao. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình ông buộc phải tản cư lên thị trấn Hiệp Hòa. Thế rồi một hôm ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, khi đó ông đã vô cùng đau khổ. Nhưng cho đến khi nghe tin cải chính về làng ông vui sướng đến mức đi khoe nhà ông bị đốt hết trong niềm tự hào.

* Luận điểm 1: Phân tích tình huống truyện

- Tình huống: Ông Hai luôn yêu và tự hào về làng của mình, nay nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

-> Tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông Hai, khác với suy nghĩ về một làng quê “tinh thần cách mạng lắm” của ông.

- Ý nghĩa của tình huống: Tình huống khiến diễn biến tâm trạng nhân vật thay đổi mạnh mẽ, thử thách lòng yêu làng và yêu nước của nhân vật ông Hai.

* Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước ở nhân vật ông Hai

- Tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng

Ông khoe về làng: giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre...Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông, vinh dự vì làng có bề dày lịch sử.

- Tình yêu làng của ông Hai sau Cách mạng.

+ Ông khoe về tinh thần cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào.


- Diễn biến tâm trạng ông Hai:

Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.Khi biết tin làng chợ Dầu theo Tây được cải chính.

- Đặc sắc nghệ thuật:

Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dânLời nói trần thuật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu theo lời nhân vật ông Hai (ngôi thứ 3)Ngôn ngữ nhân vật của ông Hai vừa mang nét chung của người nông dân nhưng cũng mang điểm riêng biệt đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh độngGiọng điệu trần thuật tự nhiên thân mật đôi khi dí dỏm của nhân vật.Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.

c) Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện.

Bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân

Phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 1

Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc cuộc sống nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về đề tài sinh hoạt ở làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Làng là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn trong giai đoạn trước năm 1954. Tác phẩm khắc họa đậm nét tình yêu làng, yêu nước thiết tha của nhân vật ông Hai, một lão nông hiền lành, chất phác. Qua nhân vật ông Hai, người đọc cũng nhận rõ những chuyển mới của người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp: yêu quê hương, đất nước, căm thù kẻ thù xâm lược, đứng về phía cách mạng và quyết tâm bảo vệ cuộc sống.

Điều đầu tiên mà ta cảm nhận được ở ông Hai là tình yêu làng xóm, yêu quê hương thiết tha. Có thể nói cái làng Chợ Dầu gắn bó như máu thịt, như một phần cuộc sống của ông. Tác giả đã để cho ông Hai bộc lộ tình yêu đó một cách nồng nhiệt, rất riêng mà cũng rất giống với những người dân lao động Việt Nam vốn sống với những hình ảnh làng xóm quê hương từ tấm bé. Song tình yêu làng của ông không bảo thủ mà biến chuyển theo dòng chảy thời đại. Nó luôn đổi mới hợp lý, sâu sắc, rất quyết liệt và cũng rất đúng với rung động thật sự từ tấm lòng ông.


Trước cách mạng tháng Tám, lúc còn ở làng, ông Hai thường khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông: “ ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm”. Lời nói ấy thể hiện một sự chân thành, một tỉnh cảm sâu kín tận đáy lòng ông. Yêu làng, ông yêu tất cả những gì của làng ông, yêu cả những cái mà mình đã khổ sở vì nó. Làng và ông là một, là máu thịt và tinh thần, là hòa hợp nhất thể, khó mà tách ra được.

Kim Lân đã xây dựng nhân vật ông Hai bắt đầu là như thể vừa để phản ánh thực tế về những người nông dân dưới xã hội mù mịt đen tối, vừa khẳng định ý nghĩa quan trọng của ánh sáng cách mạng tháng Tám. Cách mạng tháng Tám thành công đem lại sự đổi mới quyết định đối với mỗi tâm hồn, với tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam, trong đó có ông Hai. Giờ đây, ông không còn khoe cái lăng cụ Thượng, cái sinh phần kia nữa. Ông chỉ khoe về sự giàu có, trù phú của làng ông với cái chòi phát thanh cao nhất với đường làng lát đá xanh mà trời mưa bùn không dính đến gót chân. Đặc biệt, ông yêu nhất là cái tinh thần của người làng ông: hăng hái và yêu cách mạng.

Với cách miêu tả cụ thể, chi tiết, ngôn ngữ chất phác, Kim Lân đã mở ra trong lòng ta một tình yêu làng mãnh liệt đang cuộn trào trong ông Hai. Cảnh vật xóm làng đã in đậm trong trái tim ông, như đang trỗi dậy, hiện về rõ mồn một trước mắt. Tình cảm ấy thật đơn sơ mà đáng quý biết bao. Qua lời kể của ông Hai, làng Dầu hiện lên thật tươi đẹp, ấm no, bình yên, gần gũi. Nó càng đẹp hơn hết dưới con mắt của ông Hai. Có lẽ vì thế nên mỗi khi kể chuyện về làng, ông lại say sưa, háo hức lạ thường, thậm chí chẳng để ý xem người ta có nghe mình nữa không.

Mỗi khi nghĩ về làng, “hai con mắt ông sáng hẳn, lên cái mặt biến chuyển hoạt động”. Chỉ bằng một câu ngắn gọn, nhà văn đã gợi cho chúng ta tình cảm thiêng liêng mà ông Hai dành cho làng thật sâu sắc, thật thắm thiết. Tình yêu ấy đã khắc sâu trong tim ông và trở thành một khối tình nóng bỏng luôn ủ ấm tâm hồn ông. Dù ở nơi tản cư, ông luôn mong muốn được trở về sống với làng xóm, quê hương. Vì thế khi nói chuyện về làng, ông vui vẻ hoạt bát hẳn lên. Dường như một nguồn sinh lực nào đó đang lan tỏa trong người khiến ông quên hết xung quanh để kể về cái làng ấy. Phải chăng, nguồn năng lực đó là tình yêu làng đắm say tha thiết?

Tình yêu làng đang trào dâng như sóng và trở thành một niềm cảm hứng mãnh liệt trong ông. Bằng cách để nhân vật tự kể về mình, nhà văn đã giúp ta hiểu được phần nào tâm trạng của ông Hai. Niềm vui sướng của ông khi kể chuyện làng lan cả sang trang sách, len lỏi vào lòng người đọc. Không những vậy, ông còn tự hào về làng mình có những đường hầm, hào liến tiếp, có những ụ, những giao thông , những buổi tập quân sự của các cụ phụ lão cứu quốc. Điều đó thể hiện một tình cảm sâu kín thấm vào da thịt ông rất giản dị mà cao quý.


Tình cảm đó càng được nhân lên gấp bội khi ông nghe tin làng chợ Dầu đi Việt gian. Trước cái tin dữ ấy “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Tưởng như đến không thở được…”. Chỉ bằng một chi tiết nhỏ, Kim Lân đã thể hiện thành công sự đau khổ đang giày vò, giằng xé tâm can ông Hai.

Nhà văn rất tài tình khi xây dựng, dâng tình tiết truyện lên đến kịch tính, đưa câu chuyện lên đỉnh cao xung đột tâm lí để bộc lộ đáy sâu tấm lòng của ông Hai. Biết tin sét đánh này, ông nghẹn ngào, choáng váng như sét đánh ngang tai, nói không ra lời như một cái gì đó nuốt không nổi. Suy cho cùng, nỗi đau đớn ấy cũng xuất phát từ tình yêu làng của ông mà ra. Bởi vì yêu làng quá, tin làng quá nên ông mới phải xấu hổ, tủi nhục khi nghe cái tin ấy. Tình yêu làng của ông cao đẹp, to lớn biết dường nào?

Trong con người ông Hai, tình cảm dành cho làng gắn liền với tình yêu nước. Tình yêu quê hương là cội nguồn của tình yêu nước. Đúng như I-li-a Ê-ren-bua, một nhà văn Liên Xô cũ đã viết: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên tình yêu tổ quốc”. Với ông Hai, chân lý ấy càng đúng hơn bao giờ hết. Từ chỗ yêu những con đường làng, yêu những mái nhà ngói,… tình cảm của ông Hai tiến dâng lên lòng yêu nước. Lòng yêu nước sâu nặng, thầm kín ấy lại bừng sáng rực rỡ ,lung linh trong tâm hồn ông. Tình yêu làng được nâng cao, được vút lên đinh cao của vẻ đẹp trong nhân vật ông Hai mà Kim Lân tập trung khắc họa, tô đậm rõ nét.

Vì yêu nước nên ông Hai căm thù bọn phản bội đất nước. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây ông đã rít lên : “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt Gian bán nước để nhục nhã thế này!” . Tiếng rít ấy thể hiện sự căm giận đang bốc lên ngùn ngụt, thể hiện sự dồn nén, kìm hãm đã ghê gớm lắm rồi trong lòng ông. Lời nói ấy ẩn chứa bao nhiêu lời trách oán, khinh bỉ, khổ đau. Cũng vi yêu nước mà chiều nào cũng cũng tìm đến phòng thông tin nghe tin tức về cuộc kháng chiến, ông hả lòng, hả dạ, sung sướng , tự hào về những chiến tích anh hùng của mọi người dân trong cả nước. Điều đó thể hiện tấm lòng chân thật của ông Hai dành cho đất nước.

Những diễn biến trong cảm xúc, tâm trạng những nghĩ suy sâu sắc, những cuộc đấu tranh xung đột gay gắt trong nội tâm ông Hai đã tô đậm thêm tình yêu quê hương, đất nước của ông. Chính ông đã khẳng định: “ Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Câu nói ấy chân thành như một lời bộc bạch, tình yêu của ông Hai bây giờ thực sự có ý thức, ông cảm thấy tủi hổ vì làng theo Tây và ông cảm thương những đứa con ông có một quê hương như thế. Ông không dám đi đến đâu , lúc nào cũng nơm nớp lo lâu. Cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra thật gay gắt, quyết liệt. Có những lúc ông định về làng, song ông nghĩ: “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Như vậy là tấm lòng ông đã dành hẳn cho đất nước, tình yêu nước đã kết tụ, lắng đọng lại trong ông thành một thứ ánh sáng diệu kì, rực rỡ.

Lòng yêu nước sâu nặng của ông Hai đã thúc giục ông phải bảo vệ đất nước, phải đánh đuổi quân giặc tàn bạo, dã man. Nhiều lúc, ông bồi hồi nhớ lại những ngày kháng chiến ở làng. Hồi ấy ờ làng chợ Dầu thật khí thế, đông vui, sôi nổi: “ Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một, hai”. Ta không chỉ thấy ở ông Hai một quyết tâm theo Bác Hồ , theo kháng chiến đến cùng mà ta còn thấy cả những người dân làng chợ Dầu nói riêng và người dân Việt Nam nói chung đều có cùng quyết tâm như vậy.


Dù già, dù trẻ ai cũng muốn góp sức mình vào cuộc kháng chiến trường kì để làm nên thắng lợi. Kim Lân đã tái hiện một thời kỉ toàn dân tộc ta sôi sục đứng lên đánh giặc trong những ngày đầu kháng chiến mà ông Hai là một nhân vật điển hình. Cũng như bao người khác ông sẵn sàng hi sinh tất cả cho kháng chiến, cho cụ Hồ.

Chi tiết cuối truyện khắc sâu trong lòng bạn đọc bời vì ông hai rất vui mừng, hả hê khi khoe khoang làng ông không đi Việt gian và: “Tây nó đốt nhà tôi tôi bác ạ! Đốt sạch!”. Người nông dân xưa luôn bị đè nặng bởi miếng cơm manh áo, bởi nhà cửa vườn tược… khi phải bỏ nhà ra đi, họ xót xa lắm rọi. Song với ông Hai, ngay cả khi cháy nhà, ông vẫn sung sướng lắm vì ông hiểu rằng như vậy là ông đã cống hiến cho quê hương đất nước, như vậy là làng ông vẫn bất khuất anh hùng. Làng chợ Dầu còn biết bao người vẫn một lòng đánh giặc. Nếu như lúc trước tinh thần ông Hai sụp đổ ghê gớm thì bây giờ ánh sáng của niềm tin, niềm hy vọng lại chiếu rọi sáng ngời tâm hồn ông. Yêu làng và yêu nước quyết tâm kháng chiến đến cùng, kính yêu lãnh tụ với niềm tin sắt đá. Đó là tấm lòng của ông Hai, là tâm hồn hàng triệu người nông dân Việt Nam thời máu lửa.

Kim Lân đã rất thành công khi lựa chọn giọng kể nhẹ nhàng mà lắng sâu, có chiều sâu tâm lí. Cách sáng tạo tình huống truyện có tính căng thẳng, thử thách hết sức độc đáo. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế. Ngôn ngữ đặc sắc, sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân.

Phía sau lời gửi gắm và niềm mong mỏi thiết tha của người cha đối với người con, ta nhận thấy trong bài thơ Nói với con là niềm tự hòa lớn lao về quê hương, xứ sở của con người. Đó là một quê hương với thiên nhiên núi rừng cũng hào phóng ban tặng cho ta biết bao hoa thơm trái ngọt, hương hoa nồng nàn thanh khiết, sắc hoa tươi thắm tô điểm làm đẹp cho cảnh sắc của quê hương đất nước. Trên khắp mọi nẻo đường của quê hương đất nước, dù đi đâu về đâu ta cũng bắt gặp những con người, những tấm lòng thơm thảo thủy chung, nhân ái nghĩa tình, luôn biết sống yêu thương đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau:

Rừng cho hoaCon đường cho những tấm lòng

Quê hương là nơi tình yêu lứa đôi được hình thành sinh sôi nảy nở, là nơi ta dựng xây tổ ấm gia đình hạnh phúc. Biết bao thế hệ con người đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này:

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cướiNgày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Không chỉ gợi cho con về cội nguồn sinh dưỡng, người cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của “người đồng mình” để từ đó gửi gắm biết bao ước mơ kì vọng của cha dành cho con.

Người đồng mình luôn có ý chí vươn cao, vươn xa:

“Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồnXa nuôi chí lớn”

Người đồng mình luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, trở ngại dựng xây quê hương:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnhSống trong thung không chê thung nghèo đóiSống như sông như suốiLên thác xuống ghềnhKhông lo cực nhọc”

Người đồng mình thô sơ da thịt, chân chất quê mùa, lối sống mộc mạc bình dị nhưng chẳng có ai tầm thường nhỏ bé. bởi họ mang trong mình biết bao phẩm chất tốt đẹp. Trước gian khổ khó khăn không bao giờ đầu hàng khuất phục. Con người có ý chí nghị lực phi thường, sống giàu tình nặng nghĩa, yêu quê hương nồng nàn tha thiết. Bằng sức lao động, họ dựng xây, bồi đắp cho quê hương ngày càng giàu đẹp, xây dựng và giữ gìn phong tục cho muôn đời sau:

“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục”

Và từ cuộc sống lao động cần lao nhưng thắm đượm tình nghĩa đã làm nên bản sắc văn hóa, những phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương đất nước để mỗi người dân Tày hôm nay và mai sau luôn cảm thấy yêu quý, tự hào về quê hương đất nước mình:

Con ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con

Lời nhắn nhủ chân thành tha thiết. Gửi gắm trong đó là bao ước vọng lớn lao của người cha mong muốn con sau này lớn khôn trên bước đường đời đầy chông gai thử thách hãy sống kiên cường mạnh mẽ, đừng bao giờ khuất phục trước gian khổ khó khăn.

Hình ảnh ông ảnh, một lão nông hiền lành, chất phác, sống với đồng với ruộng, một lòng với đất với người khiến người động nhớ đến hình ảnh nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao.

Xem thêm: Khám Phá Hình Xăm Của Người Nổi Tiếng, Khám Phá Hình Xăm Của Các Ngôi Sao Nổi Tiếng

Lão Hạc là người cha hết mực yêu thương con. Có thể nói, lão đã sống vì con và chết cũng vì con. Cái gì lão cũng dành dụm cho con. Lão hi sinh tất cả chỉ để mong con trai lão có thể có cuộc sống đàng hoàng. Cũng như lão Hạc, ông Hai cũng yêu thương con tha thiết. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc và đến khi mụ chủ nhà bóng gió rằng không cho người làng chợ Dầu ở nữa, lão cay đắng nhìn những đứa con, lòng đau quặn thắt khi nghĩ đến tương lai của chúng.


Lão Hạc là một người có lòng nhân hậu. Không chỉ thế, lão còn là người giàu lòng tự trọng. Trong làng, chưa bao giờ người ta thấy lão xích mích với ai. Dẫu đói khổ đến cùng cực, lão quyết không nhận bất kỳ sự giúp đỡ nào của ông giáo. Trước khi tự tử đã gửi lại ông giáo chút tiền để lo ma chay. Thật là, đời lão lão lo, lão không muốn phiền hà đến bất kì ai.

Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí, tự sự tác giả Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng nên một nhân vật Lão Hạc điển hình cho người nông dân. Đó chính là người có tấm lòng tự trọng, có lối sống trong sạch tinh khiết, tấm lòng yêu thương con tha thiết dù cuộc sống khốn khổ, bị đày đọa khổ ải. Từ hình tượng lão Hạc bế tắc trước hoàn cảnh trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao đến hình tượng ông Hai yêu làng, yêu nước, một lòng đi về với cách mạng trong truyện ngắn Làng là một quá trình chuyển tiếp hợp lí, có cơ sở của người nông dân Việt nam từ trong đêm tối nô lệ tìm đến ánh sáng của cách mạng, tìm thấy đường con đường giải phóng cuộc sống nô lệ của mình

Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất,hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Phân tích truyện ngắn Làng - Mẫu 2


Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh, tạo ra một thế đứng chính nghĩa đối lập với âm mưu thống trị và phi nghĩa của giặc Pháp cùng bọn tay sai. Sức sống và âm vang của cuộc cách mạng truyền rộng khắp quê hương và cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ lực lượng cách mạng đã mau chóng khơi dậy và chuyển hóa cả một dân tộc... Trong bối cảnh đó, nhà văn Kim Lân đã viết truyện ngắn “Làng” như một biểu tượng về bức tranh rộng lớn nêu trên.

Nhà văn kể cho chúng ta về cảnh đời của ông Hai, một nông dân ở làng Chợ Dầu cùng với vợ con tản cư sang ở tạm làng bên vì giặc Pháp tiến vào làng ông, bao vây, càn quét, khủng bố.

Từ ngày ở nơi tạm cư, vừa phần không có việc gì ra hồn cho ông làm, vừa phần vì nhớ làng, nhớ anh em du kích còn ở làng nên ông Hai rất bực bội. Ông thường hay chạy sang nhà bác Thứ bên cạnh để nói chuyện cho khuây khỏa. Hết chuyện thời sự đâu đâu mà ông nghe được, lại đến chuyện làng của ông bởi ông vốn hay khoe cái làng từ xưa và ông cứ ân hận vì vợ, vì con mà không được ở lại làng chiến đấu cùng anh em du kích.

Chuyện trò rồi đi vỡ đất, nhưng ông Hai như chẳng lúc nào quên được làng và nôn nóng ngóng tin kháng chiến khắp nơi. Ông đến cả văn phòng thông tin nghe đọc báo. Rồi nghe tin dọc đường đồn rằng làng Chợ Dầu theo giặc khiến ông Hai buồn đau tủi nhục vô cùng, về nơi ở tạm, ông vật vã đau xót. Nhưng rồi tin ấy được cải chính, ông Hai sung sướng như được rửa nhục và ông lại tiếp tục say sưa kể bao nhiêu chuyện về cái làng Chợ Dầu thân yêu của ông.

Câu chuyện chỉ diễn ra ít ngày ở nơi tạm cư, xoay quanh hình ảnh ông Hai cùng bà vợ, đứa con và mụ chủ nhà cùng đôi ba nhân vật khác, gắn liền với âm vang dân làng, cũng như tin tức kháng chiến nơi nơi vọng về. Nhưng tất cả câu chuyện lại có sức khơi mở một bức tranh sinh động đầy sức lôi cuốn và giàu ý nghĩa thú vị...

Từ không gian chật hẹp chung đụng như tù túng ở nơi tạm cư của gia đình ông Hai, tác giả đã tuần tự kể rất tự nhiên về các tình huống khi mà ông Hai bung ra ngoài đi tới, đi lui, đi đây đi đó bộc lộ tâm tình, tính cách một nông dân.

Trang văn có chất dí dỏm và tạo những giây phút xúc động. Làm sao không mỉm cười khi mà ông Hai vốn chỉ quen cày cuốc già nửa đời người nơi gốc tre bờ ruộng, tầm hiểu biết chính trị lõm bõm vụn vặt ấy.

Thế mà ông chuyện trò với bác hàng xóm toàn là những tin thời sự liên quan đến vận mệnh cả nước “... Này Đác-giăng-li-ơ nó lại về Pháp đấy nhỉ! Hừ, chơi vào! Còn là đi đi, về về! ...”, hoặc “Báo Cứu quốc hôm nay nghe sướng quá. Cụ Hồ đối đáp với các nhà báo ngoại quốc đâu vào đấy. Cứng rắn mà lại mềm mỏng lắm. Cụ bảo rằng thì là dân ta chỉ muốn độc lập và thống nhất thôi, không thì dân ta đánh đến cùng. Thật đấy, chuyến này không được độc lập và thống nhất thì chết cả đi chứ sống làm gì cho nó nhục. Mà có khi nào mình không muốn thống nhất độc lập hở bác?”.

Rồi ông miên man nói sang cả chuyện chính trị quân sự nữa “Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế kia. Ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế kia. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng ra đâu vào đâu cả”. Và người đọc cười xòa trước cái ngộ nghĩnh của ông lão khi ông giải thích tài nói huyên thuyên của ông. Đó là lúc ông “kéo dài một bên ria mép ra, tủm tỉm: - cũng là học lỏm cả đấy thôi bác ợ... Chả là tôi cũng là phụ lão cứu quốc mà...”.

Và cũng thật tếu táo, sống động khi tác giả để cho ông Hai bộc lộ lời nói dân dã bình dị tự nhiên khi cao hứng khoe lấy, khoe để cái làng của ông khi xưa. “... Chết... Chết lắm lắm là của... Cái tượng đá này ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày. Những người bằng sứ kia là bát tiên quá hải... kia là máy thu lôi. Khiếp lắm, sấm sét là thu tất cả vào trong ấy”.

Nhưng bây giờ khi Cách mạng bùng lên, ông Hai lại say sưa khoe làng những khác hẳn: “Ông khoe những ngày khởi nghĩa rồn rập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kì còn bóng tối. Những buổi tập quân sự. Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai...”

Thú vị hơn cả là sau khi thoát cái bực bội trước tính tình keo kiệt, soi bói, đỏng đảnh của mụ chủ nhà bằng cách ra ngoài cho khuây khỏa, ông Hai lại tới phòng thông tin. Dù có qua khóa bình dân học vụ xóa mù chữ nhưng ông Hai vẫn lõm bõm đọc câu được, câu chăng. Cho nên ông “cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm”.

Ông Hai “ghét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ, đọc báo lại cứ đọc một mình, không đọc ra thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy”. Nhưng hôm ấy nỗi khát khao nghe nhờ của ông Hai được đáp ứng ngay vì “vớ được anh dân quân đọc rất to, dõng dạc, rành rọt từng tiếng một. Cỡ chừng anh ta cũng mới học, đánh vần được chữ nào anh ta đọc luôn chữ ấy...” thế là ông Hai vớ được “bao nhiêu là tin hay”.

Tin một em nhỏ nằm trong lòng địch xung phong mạo hiểm cắm cờ Cách mạng lên tháp Rùa, tin một anh trung đội trưởng giết bảy tên giặc rồi tự sát, hay đội nữ du kích Trưng Trắc bắt sống tên quan Hai... Và còn bao nhiêu tin chiến đấu của du kích quân, chiến sĩ Cách mạng trên khắp các mặt trận khiến ông Hai vô cùng tự hào “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”, “làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm…”.

Tiếp đến, cao điểm của câu chuyện là ông Hai đau buồn, tủi nhục trước tin đồn đại cái làng Chợ Dầu của ông đã đầu hàng, đi theo giặc. Bố con ông ôm nhau khóc mà ông vẫn khát khao hướng về Cách mạng “... ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ...” và tâm hồn vẫn mong mỏi thầm kín chân thành: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông...”, “Cụ Hồ trên đầu, trên cổ xét soi cho bố con ông”...

Những tình huống và sự việc cụ thể, sống động vừa được điểm qua đó đã mở ra một hiện thực giàu ý nghĩa của những năm tháng không thể nào quên: Trong những tháng năm đầu của Cách mạng tháng Tám thành công, rồi tiếp ngay là tháng năm tiến hành sự nghiệp toàn quốc kháng chiến. Âm vang và sức sống của cách mạng, của hình ảnh Bác Hồ đã bắt rễ ngay vào cuộc sống nơi lũy tre, bờ ruộng thôn quê. Tạo ra chuyển biến và dấy lên được cảm hứng đầy tin yêu nơi những tâm hồn mộc mạc, chân chất, vốn sẵn tấm lòng gắn bó lâu đời với làng xóm, quê hương...

Những hình ảnh người dân rời làng khi giặc tới, tạm thời phân tán đi tạm cư nơi này, nơi khác, chỉ còn lại du kích chiến đấu. Cũng như tin tức nổi dậy khắp nơi lan truyền như đồn về trong các tình huống để rồi gợi lên bao háo hức, nôn nóng, tự hào... Rồi cả tin buồn đồn đại làng bỏ kháng chiến đi theo giặc, làm đọng lại trong lòng người đọc bao đau xót, trăn trở.

Và cuối cùng bất ngờ cái tin làng theo Tây, theo giặc được cải chính, cái danh dự của làng được phục hồi ở phần cuối câu chuyện, cùng niềm vui của bao tâm hồn, tất cả như làm rộn rã trang văn. Làm tỏ rõ thêm hiện thực một thời khi mà sức sống của chính nghĩa cách mạng, của lí tưởng độc lập, tự do nằm sâu được trong lòng dân tộc...

Trong ý nghĩa đó, chúng ta hiểu vì sao trên đường tản cư, chạy giặc, hình ảnh người đàn bà vừa cho con bú, vừa giận dữ văng tục trước tin có kẻ bám gót quân thù: “Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!”.

Và chúng ta càng thú vị khi hiểu vì sao nhân vật mụ chủ nhà trong truyện tưởng như thật đáng ghét, tưởng như mụ chẳng chút tình nghĩa gì với đồng bào, với cuộc kháng chiến. Nhưng cuối cùng mụ lại sáng rỡ khuôn mặt, hòa chung niềm vui với ông Hai “Mụ giương tròn cả hai mắt mà reo: A! Thế chứ! thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy... Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên ai bảo sao. Ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu... Mụ cười khì khì...”. Đó phải chăng là cái mẫu số chung của từng tâm hồn cụ thể, làm nên sức mạnh yêu làng, yêu nước, nơi toàn thể nhân dân...

Cứ thế, nghệ thuật xây dựng cốt truyện của nhà văn Kim Lân đã có một vẻ đẹp truyền lan được cảm xúc và ý nghĩa sâu đậm. Các tình huống như tự nhiên bước ra từ cuộc sống thực đời thường dân dã nhưng lại giàu sức biểu hiện cho một giai đoạn giao thời. Phối hợp các tình huống sống động trong truyện, trang văn của Kim Lân đã để lại dấu ấn sâu đậm cho chúng ta về niềm say sưa yêu làng, yêu nước của những tâm hồn chất phác khi mà cao trào cách mạng và cuộc kháng chiến đang thâm vào từng mạch sống của quê hương.

Bức tranh của truyện trở thành một hình tượng giàu tính lãng mạn trong một thời toàn dân chiến đấu và cuộc sống mỗi người như hòa làm một nơi lí tưởng cứu nước, cứu nhà, cứu làng xóm thân yêu.

Nơi những trang văn, cái sống động, đặc sắc của cốt truyện “Làng” cũng đã dẫn theo hình tượng nhân vật mà người đọc không thể nào quên. Đó là hình ảnh ông Hai. Từ các tình huống của hoàn cảnh, người đọc chúng ta như cảm nhận được tính cách mãnh liệt và say sưa của một nông dân đôn hậu, chất phác giữa một thời trọng đại của đất nước.

Cũng, như bao người dân Việt, từ ngàn đời gắn bó với bờ ruộng, lũy tre, với họ hàng, làng nước. Ông Hai như tiếp nối cái tình cảm truyền thống không thể mờ phai, đó là cái tình làng nghĩa xóm nơi mà ông sinh trưởng và lớn lên. Và ông đã yêu cái làng chợ Dầu của ông hơn ai hết. Yêu đến độ lúc nào cũng chỉ muốn khoe làng cho người khác thán phục. Ông chọn một sự vật cụ thể là “cái sinh phần” lăng mộ của viên tổng đốc để khoe, ông xuýt xoa mô tả từng chi tiết và có khách đến chơi là “dắt ra xem lăng cho kì được”, rồi tán tụng đến khi khách phải kinh ngạc và ông Hai thì thấy “hả hê cả lòng” tưởng “thấy cái lăng ấy một phần như có ông”.

Thế nhưng thời thế biến chuyển, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám nổ ra với những tư tưởng mới thấm dần vào từng tâm hồn, từng hoạt động cách mạng ở xóm thôn khiến ông Hai cũng đổi thay nếp nghĩ. Ông gia nhập “phong trào” khi còn “bóng tối”. Ông tham dự “qua khóa bình dân học vụ”... dù chưa đánh giỏi bằng ai, nhưng có lẽ nhờ đó mà ông Hai biết đặt tình yêu vào đúng chỗ, đúng nơi. Và ông đã nhận ra “cái sinh phần”, cái lăng mộ kia chỉ là vết tích của một thời đế quốc Pháp và quan lại phong kiến tay sai làm khổ ông, “làm khổ bao nhiêu người làng này nữa”...

Gia nhập kháng chiến, nhận rõ kẻ thù, nhìn thấy, nghe thấy cũng đổi thay cụ thể, khi cách mạng bùng lên... tâm hồn vốn yêu làng nước của ông Hai lại đầy cảm hứng dâng trào! Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động. Và “bây giờ khoe làng, ông lão lại khoe khác. Ông khoe những ngày khởi nghĩa rồn rập... làng của ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng... Những buổi tập quân sự... phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập...”

Rõ ràng cảm hứng yêu làng giờ đây như gắn liền với tâm hồn say sưa cùng cao trào khởi nghĩa rộng lan. Trong ý nghĩa dó, người đọc chúng ta càng thấy thú vị khi ông Hai bàn chuyện làng, chuyện nước bằng thứ ngôn ngữ nửa quê, nửa tỉnh một cách hồn nhiên, tếu táo “Ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế khác. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu cả”.

Từ đó, trang văn biểu hiện được tính cách tâm hồn ông Hai giờ đây lúc hân hoan, háo hức, tự hào, lúc buồn tủi xót đau, lúc sảng khoái dâng trào đều khởi đi từ nhịp sống nơi ông gắn liền với chuyện làng, chuyện nước cùng cuộc kháng chiến sôi động ngày đêm dội về.

Tóm lại, từ những phân tích phác lược nêu trên về nghệ thuật và nội dung của truyện ngắn “Làng”, người đọc chúng ta có thể bước đầu cảm nhận được giá trị ngòi bút viết truyện của nhà văn Kim Lân.

Chỉ với một truyện ngắn, tình tiết cùng nhân vật không nhiều nhưng cách phối hợp miêu tả, kể chuyện, xây dựng các tình huống, xây dựng ngôn ngữ hành động nhân vật một cách sống động, chân thật, tự nhiên mang đậm nét điển hình... giàu sức khơi gợi, truyền cảm.

Trang truyện của nhà văn đã phản ánh được sâu sắc hiện thực một thời khi mà những người nông dân vốn yêu làng, yêu nước, bộc lộ những chuyển biến tâm hồn cùng hành động trong niềm tự hào, niềm khao khát đến với cách mạng, tham gia cách mạng, làm chủ lấy vận mệnh để chiến đấu giành lại nền độc lập cho quê hương.