Nghị luận xã hội lớp 7

     

Những ý chính:

2. Cách làm bài văn nghị luận xã hội lớp 73. Những lưu ý quan trọng khi làm bài văn nghị luận xã hội lớp 74. Cách làm bài văn nghị luận xã hội lớp 7 đạt điểm caoĐiều hướng bài viết

Lớp 7 là một giai đoạn đánh dấu bước trưởng thành về cả nhận thức và kỹ năng của tất cả các em học sinh. Chương trình Ngữ văn lớp 7 có thêm kiểu bài về nghị luận xã hội, đây là kiểu bài hoàn toàn mới đối với các em học sinh. Vì vậy, không tránh khỏi những bỡ ngỡ, khó khăn ban đầu cho các em học sinh. Hơn nữa Ngữ Văn 7 là một môn học khó và được tổng hợp từ nhiều kiến thức khác nhau về đọc – hiểu và làm văn. Vì vậy mà nhiều em vô cùng lo lắng, đặc biệt là trong các dạng đề nghị luận xã hội, các em thường lúng túng, không biết sẽ bắt đầu như thế nào và triển khai ra sao cho hợp lý, vừa đảm bảo đúng, đủ nội dung và thể hiện được sự sinh động và hấp dẫn trong bài viết của mình. Nắm bắt được những khó khăn đó, eLib đã tổng hợp và chia sẻ đến các em Hệ thống bài văn mẫu nghị luận xã hội lớp 7 với những bài văn hay nhất, sáng tạo nhất. Tin rằng, đây sẽ là tài liệu hữu ích hỗ trợ các em học tập, ôn luyện hiệu quả. Mời các em tham khảo nội dung từng bài văn chi tiết ở Menu bên trái đối với PC và Menu ở trên đối với Mobile.

Bạn đang xem: Nghị luận xã hội lớp 7


2. Cách làm bài văn nghị luận xã hội lớp 7


2.1. Dạng bài văn lập luận giải thích


– Đối với phép lập luận giải thích thì các em cần lưu ý giải thích trong văn nghị luận là làm cho người đọc, người nghe hiểu rõ các tư tưởng, đạo lí, phẩm chất, quan hệ… cần được giải thích nhằm nâng cao nhận thức, trí tuệ, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho con người.

– Văn nghị luận có các cách giải thích: Nêu định nghĩa, liệt kê các biểu hiện, so sánh đối chiếu, chỉ ra các mặt lợi và hại, nêu nguyên nhân.

– Ví dụ về đề bài: Nhân dân ta có câu tục ngữ “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Hãy giải thích nội dung câu tục ngữ đó”, hướng dẫn làm dạng bài này như sau:

+ Bước 1 là bước triển khai tìm hiểu đề và tìm ý. Cụ thể, yêu cầu của đề là giải thích, vấn đề cần giải thích là “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, lưu ý gạch dưới từ then chốt. Các ý cần triển khai (giải thích nhiều mặt của vấn đề gồm nghĩa đen, nghĩa bóng), liên hệ với các câu ca dao, tục ngữ tương tự. Học sinh lưu ý tra từ điển, suy nghĩ kĩ, hỏi người hiểu biết hơn.

+ Bước 2 là lập dàn bài:

Mở bài: Giới thiệu câu tục ngữ với ý nghĩa sâu xa là đúc kết kinh nghiệm thể hiện khát vọng đi nhiều nơi để mở rộng hiểu biết.Thân bài: Triển khai việc giải thích. Nghĩa đen “Đi một ngày đàng” nghĩa là gì? “Một sàng khôn nghĩa” là gì?. Nghĩa bóng là: Đi đây đó thì mở rộng tầm hiểu biết, khôn ngoan từng trải. Nghĩa sâu: Khát vọng của người nông dân xưa muốn mở rộng tầm hiểu biết. Liên hệ thêm các câu “Đi một buổi chợ, học một mớ môn”, “Đi cho biết đó biết đây, ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”. Ở phần này, các em cần thao tác chứng minh: Chứng minh tính đúng đắn của câu tục ngữ này trong đời sống. Tuy nhiên thao tác chứng minh chỉ cần 1-2 dẫn chứng minh họa, còn quan trọng vẫn là thao thác giải thích.Kết bài: Câu tục ngữ xưa vẫn còn ý nghĩa cho đến ngày hôm nay.

2.2. Dạng bài văn lập luận chứng minh


– Trong văn nghị luận, chứng minh là một phép lập luận đúng những lí lẽ, bằng chứng đã được thừa nhận để làm sáng tỏ quan điểm. Theo đó, các lí lẽ, bằng chứng dùng trong phép lập luận chứng minh phải được lựa chọn, thẩm tra, phân tích thì mới có sức thuyết phục.

– Ví dụ về đề bài: Chứng minh tính đúng đắn của câu tục ngữ “Một cây làm chẳng nên non – Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, hướng dẫn làm dạng bài này như sau:

+ Mở bài: Giới thiệu câu tục ngữ và khẳng định tính đúng đắn.

+ Thân bài:

Thứ nhất: giải thích nghĩa từng từ “một cây”, “ba cây”, “chụm lại”, “núi cao” và nghĩa cả câu, Mục đích để đề cao sức mạnh của tinh thần đoàn kết và đem lại thành công.Thứ hai: chứng minh câu tục ngữ trên thông qua việc xét về lí và xét về thực tế. Cụ thể.Xét về lí: đoàn kết là điều cần thiết để con người có sức mạnh, động lực phấn đấu, không đoàn kết khó có thể đạt được thành công.Xét về thực tế: đoàn kết là sức mạnh dẫn đến thành công (đưa ra dẫn chứng về chiến đấu chống giặc ngoại xâm, lao động sản xuất…). Bên cạnh đó, sức mạnh đoàn kết còn giúp con người vững bước vượt qua những khó khăn, thách thức trong cuộc sống (dẫn chứng, chương trình truyền hình “Triệu trái tim – một tấm lòng”, “Việc tử tế”…).

+ Kết bài: Nêu suy nghĩ về câu tục ngữ và liên hệ bài học rút ra là gì?


3. Những lưu ý quan trọng khi làm bài văn nghị luận xã hội lớp 7


3.1. Cần nắm vững yêu cầu của đề


– Trước khi làm bài, học sinh cần đọc kỹ đề bài, phải chú ý từng từ ngữ, hiểu ý nghĩa của từng từ, từng câu; học sinh chú ý cả những dấu chấm hay ngắt câu trong đề bài để nắm rõ yêu cầu của đề bài.

– Đối với đề bài văn nghị luận xã hội lấy kiến thức, thông tin và cả những kinh nghiệm có trong cuộc sống để minh chứng cho lý lẽ của mình. Do vậy đòi hỏi học sinh cần có một kiến thức sống khá phong phú; có sự tinh tế và nhạy bén trong nhận định một vấn đề. Để làm tốt, học sinh phải thường xuyên thu nhận thông tin hàng ngày trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Ghi chép lại những thông tin cần thiết làm tài liệu cho riêng mình (chú ý phải ghi nguồn xuất xứ thông tin để chú thích khi trích dẫn vào bài làm). Tất nhiên khi đưa dẫn chứng vào bài làm, học sinh phải sàng lọc chi tiết có liên quan, tránh dẫn chứng tràn lan, đi lệch hay đi quá xa vấn đề cần phân tích hay chứng minh. Nguồn kiến thức này tuyệt đối không được sai, không được tự sáng tác; tránh lấy “râu ông nọ cắm cằm bà kia”.

Xem thêm: Taxi Thanh Nga Số Điện Thoại, Số Điện Thoại Taxi Thanh Nga Hà Nội


3.2. Hình thức đoạn văn


Đoạn văn phải đảm bảo đúng dung lượng theo yêu cầu của đề bài, thông thường là 200 chữ (khoảng 20 tới 23 dòng), tránh viết quá dài hoặc quá ngắn. Đoạn văn có thể tùy ý lựa chọn các cấu trúc: song hành, móc xích, quy nạp, diễn dịch hay tổng phân hợp,… nhưng phải đúng cấu trúc đoạn văn: Không xuống dòng giữa đoạn; đoạn văn bắt đầu bằng chữ cái viết hoa và lùi vào một chữ ở đầu dòng và kết thúc bằng dấu ngắt câu – có thể là dấu chấm, chấm than, ba chấm hoặc chấm hỏi tùy theo kiểu câu phù hợp với nội dung kết đoạn.


3.3. Phương pháp làm bài phù hợp


– Sau khi nhận đề học sinh tuyệt đối không nên làm bài ngay, sẽ dễ bị lạc đề. Điều trước tiên là các em dùng bút (nên dùng bút chì) gạch dưới những từ ngữ quan trọng có trong đề bài để trên cơ sở đó bám sát yêu cầu của đề trong quá trình làm bài và tránh được lạc đề. Hiểu rõ và đúng nghĩa các từ này. Sau khi nắm vững yêu cầu của đề, các em tập trung cho công việc lập dàn bài chi tiết. Đọc đi đọc lại dàn bài để tìm xem có còn thiếu sót để bổ sung thêm. Tiếp theo tìm dẫn chứng để minh họa hoặc lồng ghép các minh chứng có liên quan vào các lý lẽ phân tích của mình. Dẫn chứng càng phong phú (có chọn lọc, tránh tham lam) và độc đáo sẽ nâng chất lượng bài làm của mình lên. Tránh viết lan man và quá dài gây nhàm chán, lạc lõng dễ đi đến việc phân tích không sát chủ đề. Những bài làm như thế này chắc chắn không thể đạt điểm trung bình, nếu không nói là điểm kém.

– Ngoài ra, phong cách thể hiện (là văn phong của mỗi học sinh) là điều vô cùng quan trọng, các em cần thể hiện sự sáng tạo trong bài làm. Cách viết hay cách thể hiện khác lạ dễ gây chú ý giám khảo, nếu sự khác lạ đó độc đáo chắc chắn các em sẽ đạt điểm cao.

– Với bài văn nghị luận xã hội, học sinh khi sử dụng ngôn ngữ cần chọn những từ ngữ súc tích có tính hình tượng cao và lúc thể hiện cũng cần phải ngắn gọn nhưng phải đảm bảo đầy đủ ý và tránh giáo điều, khô khan. Tính liên kết giữa các câu và giữa các ý với nhau là điều bắt buộc để tránh sự rời rạc. Một bài văn bất cứ thể loại nào cũng luôn cần yếu tố lôi cuốn và văn phong nhẹ nhàng, có như vậy mới hấp dẫn. Một bài văn nghị luận văn học thường dài hơn một bài văn nghị luận xã hội. Bài văn nghị luận xã hội không đòi hỏi phải viết thật dài mà cần những dẫn chứng thật sắc sảo và thuyết phục. Một bài viết sâu sắc luôn cuốn hút người đọc và rất dễ đi vào lòng người. Mỗi bài văn nghị luận, thời gian thường dành khoảng từ 90 đến120 phút ở lớp học và 150 phút ở các kỳ thi. Vì vậy, các em phải biết phân bổ thời gian thật khoa học.

– Tuy nhiên để đạt điểm tốt bài làm văn của mình, các em phải thường xuyên rèn kỹ năng viết bằng nhiều cách như: tự ra đề và làm bài, sau đó nhờ anh chị hay thầy cô xem lại và góp ý; tập viết văn những khi có thời gian rỗi,… Nhưng trên hết, các em cần nhận rõ vẻ đẹp của ngôn ngữ; thấy được giá trị của văn học; đặc biệt có tâm hồn với văn học, yêu văn học. Có được những yếu tố trên, chắc chắn các em luôn đạt điểm cao môn văn, trong đó có điểm bài làm văn nghị luận.


Nhiều giáo viên khi chấm bài làm của thí sinh đều cho rằng số rất ít thí sinh làm bài tốt ở câu nghị luận xã hội. Bởi lẽ, ở trường học, các em còn quá lệ thuộc vào cách học khuôn mẫu, thiếu tư duy, sáng tạo. Do vậy để đạt điểm cao, ngoài kiến thức được học tại trường, các em phải có lượng hiểu biết về xã hội. Thí sinh có thể ủng hộ hay phản đối một quan niệm nào đó song phải có khả năng lập luận sắc bén và cách hành văn trôi chảy, có sức thuyết phục. Văn nghị luận xã hội khác với nghị luận văn học ở chỗ nó là những kiến thức được tích lũy và lấy ra từ cuộc sống hằng ngày. Vì vậy, bạn cần sự tìm kiếm, học hỏi và nắm bắt thông tin nhanh chóng. Muốn vậy, cần khai thác thông tin trên đài, báo, truyền hình hàng ngày; ghi chép lại những nhân chứng, bài học, tình huống hay và có ý nghĩa trong cuộc sốngđể làm tư liệu, dẫn chứng cho bài làm.


Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn ra đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn theo hướng mở nhằm đánh giá được năng lực và phân loại trình độ của học sinh, nhất là ở mảng câu hỏi nghị luận xã hội. Điều này cũng giúp học sinh có khả năng vận dụng được những hiểu biết thực tế vào bài viết của mình. Tuy nhiên, nhiều năm qua, vẫn có hiện tượng thí sinh làm xa đề, lạc đề, lan man,… Vì vậy, việc xác định kiểu dạng đề thi nghị luận là rất cần thiết, tránh cho thí sinh đi lạc hướng và làm sai đề. Muốn vậy, mỗi thí sinh phải đọc kỹ đề bài, chú ý những từ ngữ để nhận kiểu, dạng bài văn. Thông thường, ta dễ bắt gặp 2 kiểu, dạng đề đó là: nghị luận về một tư tưởng, đạo lý và nghị luận về một hiện tượng đời sống xã hội.


Một bài nghị luận xã hội thường có yêu cầu về số lượng câu chữ nên thí sinh cần phân phối lượng thời gian làm bài sao cho phù hợp, tránh viết dài dòng, sa vào kể lể, giải thích vấn đề không cần thiết. Trên cơ sở dàn ý, chúng ta cần luyện cách viết và trình bày sao cho ngắn gọn, mạch lạc, dễ hiểu và có tính thuyết phục cao.


Giải thích câu tục ngữ “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây ” Chứng minh câu tục ngữ Ăn quả nhớ kẻ trồng câyNghị luận về câu Ăn quả nhớ kẻ trồng câyChứng minh câu tục ngữ : “ Uống nước nhớ nguồn ” Dàn ý chứng tỏ câu tục ngữ Học ăn, học nói, học gói, học mở

Dàn ý:Chứng minh câu tục ngữ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

1. Mở Bài

2. Thân Bài· Giải thích câu tục ngữ:

· Nghĩa đen : Khi ăn quả phải nhớ đến kẻ đã có công trồng cây, không có kẻ trồng cây làm thế nào có cây, có quả để ăn· Nghĩa bóng : “ quả ” ở đây chính là thành quả, thành tựu, “ ăn quả ” chính là tận hưởng thành quả ấy, khi đó ta phải nhớ đến công lao của những “ kẻ trồng cây ” – những người đã bỏ ra công sức của con người, mồ hôi nước mắt thậm chí còn cả xương máu để có được thành quả đó· Chứng minh ý nghĩa câu tục ngữ :· Ý nghĩa : Đó chính là đạo lý ơn nghĩa tốt đẹp, phải ghi nhớ và biết ơn những người đã giúp sức ta trong lúc khó khăn vất vả, người mang lại cho ta những điều quý giá trong đời sống· Thời xưa : Thờ cúng ông bà tổ tiên, cha mẹ đã mất, cúng cảm tạ thần linh, tạ ơn trời đất cho mùa màng bội thu· Thời nay : Ngày Nhà giáo Nam 20-11, ngày Thương binh Liệt sĩ 27-7

3. Kết Bài: Khẳng định giá trị câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”

Từ xưa đến nay, đạo đức truyền thống lịch sử luôn là một trong những giá trị tốt đẹp của dân tộc bản địa được ông cha ta truyền lại từ đời này qua đời khác. Một trong số đó chính là đạo lý về lòng biết ơn, “ uống nước nhớ nguồn ”. Thế hệ tất cả chúng ta ngày hôm nay, được sống trong một bầu không khí hoà bình, ấm no, có vừa đủ những điều kiện kèm theo vật chất và ý thức, không hề không kể đến công lao của thế hệ đi trước đã lao động miệt mài, tạo ra thành quả, vì thế mỗi người cần trân trọng và biết ơn những người đã cho ta đời sống thời điểm ngày hôm nay. Điều này cũng được bộc lộ rất rõ qua câu tục ngữ mà ông cha ta đã để lại “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây ”. Trước hết, tất cả chúng ta cần phải hiểu “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây ” là ra làm sao ? Ở đây, theo nghĩa đen, khi ta “ ăn quả ” tức là tận hưởng những tinh hoa, những trái thơm quả ngọt, ta không hề quên đi những “ kẻ trồng cây ”, là những người đã có công vun xới, cuốc đất để tạo ra nó. Từ đó, sâu xa hơn, ông cha ta đã đúc rút ra một bài học kinh nghiệm đạo lý về lòng biết ơn vô cùng thâm thúy : Chúng ta luôn phải nhớ ơn thế hệ đi trước và những người đã khó khăn vất vả làm ra thành quả để ta có được một đời sống khá đầy đủ cả về vật chất lẫn ý thức như ngày thời điểm ngày hôm nay. Có thể nói, đây là một bài học kinh nghiệm về đạo lý làm người thật sự thâm thúy và giàu ý nghĩa. Thật vậy, thứ nhất bất kể một thứ gì trong đời sống mà tất cả chúng ta đang sử dụng, tận thưởng ngày hôm nay đều có nguồn cội từ sức lao động mà nên. Từ những thứ tưởng chừng đơn thuần trong đời sống hàng ngày như nước uống, cũng phải trải qua một quy trình những người công nhân trong xí nghiệp sản xuất sàng lọc để cho ta nước tinh khiết ; bát cơm dẻo thơm nuôi sống ta hàng ngày cũng là công lao của biết bao người nông dân siêng năng đội mưa đội nắng đem lại những hạt gạo trắng tinh ; rồi xe cộ ta đi lại, thiết bị công nghệ tiên tiến ta sử dụng … Đến những giá trị ý thức như kiến thức và kỹ năng sâu rộng mà tất cả chúng ta có đều là nhờ sách vở mà con người dày công nghiên cứu và điều tra, từ sự truyền dạy của thầy cô ; hay sâu xa hơn là đời sống hoà bình, ấm no như ngày ngày hôm nay, đó chẳng phải là công lao to lớn của thế hệ cha anh đi trước đã “ quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh ”, chiến đấu, quyết tử vì quân địch để bảo vệ dân tộc bản địa hay sao ? Vậy nên bất kể một thứ gì tất cả chúng ta đang có, đều là công lao của một cá thể, một tập thể, thậm chí còn là một dân tộc bản địa đã đổ mồ hôi, sôi nước mắt để tạo ra. Do đó, mỗi người cần phải biết ơn, trân trọng những điều ấy. Khi ta biết trân trọng, biết nhớ về cội nguồn, con người ta sẽ hoàn toàn có thể rèn luyện về nhân cách, sống có trước có sau, ý thức được bổn phận và nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Dân tộc ta mà một dân tộc bản địa giàu truyền thống cuội nguồn đạo lý, và đạo lý về “ uống nước nhớ nguồn ” cũng được thừa kế và phát huy thoáng rộng trong đời sống ngày hôm nay. Chẳng hạn những đợt nghỉ lễ như Quốc Tế Phụ Nữ 8/3 để tôn vinh những người phụ nữ có ý nghĩa trong cuộc sống của mỗi người, đem đến cho ta đời sống khá đầy đủ, niềm hạnh phúc, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10/3 âm lịch hàng năm, tưởng niệm công lao dựng nước và giữ nước của những vua Hùng, rồi ngày Nhà giáo Nước Ta 20/11 tri ân công sức của con người dạy dỗ của thầy cô, ngày Thương binh liệt sĩ 27/7, tưởng niệm những người anh hùng đã quyết tử, quyết tâm chiến đấu chống lại quân địch xâm lược, … Lòng biết ơn không chỉ có ý nghĩa thâm thúy trong khoanh vùng phạm vi của dải đất hình chữ S của tất cả chúng ta, mà xa hơn bên ngoài quốc tế kia, ta cũng hoàn toàn có thể phát hiện những tấm gương có lòng biết ơn thâm thúy, ví dụ điển hình như hình ảnh cô hoa khôi Xứ sở nụ cười Thái Lan Mint Kanistha, sau khi đăng quang đã quay trở lại nhà và quỳ lạy cảm ơn người mẹ với việc làm lượm ve chai của mình hay chàng trai Kalangnalong là tân cử nhân mới tốt nghiệp trường Đại học Chulalongkorn khét tiếng của Đất nước xinh đẹp Thái Lan cũng quỳ gối trước xe rác của người cha để cảm tạ gây xúc động mạnh cho biết bao người. Có thể nói, dù là hiện tại hay tương lai, dù ta có ở trên đỉnh điểm của danh vọng, đạt được bao nhiêu thành tựu, thì cũng hãy đừng quên đi những người đã tạo ra ta, nuôi dưỡng ta nên người để ta có được những thành quả ấy. Con đường của bạn dù có trải đầy hoa hồng dù bạn có bước đến cánh cửa của vinh quang nơi cuối con đường, thì cũng hãy đừng quên đi những người đã có công trải những “ cánh hoa ” ấy để bạn bước tiến. Nếu con người ta sống mà không biết trước biết sau, không hướng về cội nguồn, không biết đền ơn đáp nghĩa sẽ thuận tiện bị tha hoá về nhân phẩm, trở nên lãnh đạm, vô cảm với mọi người xung quanh, bị người đời khinh ghét. Thay vì lối sống ấy, tại sao tất cả chúng ta không bộc lộ lòng biết ơn, ngay từ những hành vi đơn thuần nhất như luôn kính trọng mái ấm gia đình, thầy cô, không tiêu tốn lãng phí, sử dụng vừa đủ, quan trọng hơn hết là tu dưỡng đạo đức thật tốt và cần biết giữ gìn, phát huy đạo lý truyền thống lịch sử ấy của ông cha ta cho những thế hệ sau. Như vậy, câu tục ngữ của ông cha ta là vô cùng thấm thía và thâm thúy, nó luôn đúng trong mọi thực trạng, mọi thời gian, góp thêm phần làm giàu thêm truyền thống lịch sử đạo lý quý báu của dân tộc bản địa. Lòng biết ơn, “ uống nước nhớ nguồn ” là một trong những nền tảng, thước đo giá trị đạo đức của mỗi con người. Đạo lý được đúc rút ra từ câu tục ngữ mộc mạc, giản dị và đơn giản “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây ” chắc như đinh sẽ là một hành trang lý tưởng và tốt đẹp trên con đường chinh phục và thành công xuất sắc của mỗi tất cả chúng ta sau này .