Bài 2 pháp luân công
Công lý: Phần cốt lõi bài động tác Phật Triển Thiên Thủ pháp, chính là ‘căng’ ‘chùng’, đả thông các chỗ năng lượng bị ứ tắc, điều động sự vận động mạnh mẽ của năng lượng bên trong
Bạn đang xem: Bài 2 pháp luân công
Quyết1:
Thân thần hợp nhất, Động tĩnh tuỳ cơ;
Đỉnh thiên độc tôn, Thiên thủ Phật lập.
Thế dự bị: Hai chân giang rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi cong một chút, chỗ gối và háng đặt ở trạng thái chùng, toàn thân buông lỏng, lỏng nhưng không oải. Hàm dưới hơi thu, lưỡi đặt hàm trên, hàm răng hơi hở một chút, môi miệng ngậm lại, hai mắt nhắm khẽ, nét mặt mang ý an hoà.
Hình 1-1
Lưỡng thủ kết ấn—Hai tay nâng lên, bàn tay hướng lên trên. Hai đầu ngón cái nhẹ nhàng khẽ chạm vào nhau, còn bốn ngón tay kia xếp chồng lên nhau. Nam tay trái ở trên, nữ tay phải ở trên, tạo thành hình bầu dục, đặt tại nơi bụng dưới. Hai bắp tay hơi hướng về trước, hai khuỷu tay khởi lên, làm cho nách có chỗ trống (hình 1-1).
Di Lặc thân yêu—Từ khởi thế “kết ấn”, lấy thế thủ ấn đưa lên. Khi đưa đến trước đầu, kết ấn rời ra, dần dần xoay bàn tay hướng lên trên. Khi tay đạt đến đỉnh đầu, lòng bàn tay hướng lên trên, mười ngón tay chỉ vào nhau (hình 1-2), đầu ngón tay cách nhau 20–30 cm. Đồng thời khi ấy, hai chưởng căn nâng lên, đầu dựng
Hình 1-2 | Hình 1-3 |
Như Lai quán đỉnh—Làm tiếp theo thế trên (hình 1-3). Hai tay đồng thời xoay chuyển bàn tay 140 độ hướng ra phía ngoài thành “hình cái phễu”, duỗi
Song thủ hợp thập—Đến chỗ bụng dưới thì chuyển tay
Hình 1-4 | Hình 1-5 |
Chưởng chỉ càn khôn—Từ khởi thế “hợp thập”. Hai tay rời ra (hình 1-6), cách nhau khoảng 2–3 cm, đồng thời bắt đầu xoay bàn tay, bàn tay trái đối với nam (tay phải đối với nữ) xoay về hướng ngực, bàn tay phải xoay theo chiều ra ngoài ngực, tạo thành bàn tay trái ở trên bàn tay phải ở dưới; và cẳng tay tạo thành hình chữ ‘nhất’2. Tiếp theo, cẳng tay trái hướng sang trái lên trên mà duỗi ra (hình 1-7), lòng bàn tay hướng xuống dưới, cao độ của tay và đầu là bằng nhau. Tay phải vẫn để trước ngực, lòng bàn tay hướng lên trên. Khi tay trái đã vào vị trí, thì đầu dựng thẳng lên, hai bàn chân dẫm xuống, toàn thân dùng lực căng ra. Căng khoảng 2–3 giây, rồi toàn thân lập tức chùng lại, tay trái trở về trước ngực cùng với tay phải thành ‘hợp thập’ (hình 1-5). Sau đó lại chuyển bàn tay, bàn tay phải ở trên, bàn tay trái ở dưới (hình 1-8) mà triển khai. Tay phải làm động tác giống tay trái khi trước (hình 1-9), căng rồi chùng; sau khi thu hồi tay, lại ‘hợp thập’ ở trước ngực.
Hình 1-6 | Hình 1-7 |
Kim hầu phân thân—Từ khởi thế “hợp thập”. Hai tay từ trước ngực mở ra sang hai bên thân, cùng với vai tạo thành hình chữ ‘nhất’. Đầu dựng lên, hai bàn chân dẫm xuống, hai tay dùng lực hướng sang hai bên, lực
Hình 1-8 | Hình 1-9 |
Song long hạ hải—Từ khởi thế “hợp thập”. Hai tay vừa tách ra vừa hạ xuống phía trước thân. Khi hai tay đặt song song, duỗi thẳng ra, hợp với thân thể một góc khoảng 30 độ (hình 1-11),
Hình 1-10 | Hình 1-11 |
Bồ Tát phù liên—Từ khởi thế “hợp thập. Hai tay vừa tách ra, vừa hạ theo phương chếch xuống hai bên thân (hình 1-12). Khi tay đến bên thân, hay cánh tay duỗi thẳng, tạo với thân thể một góc 30 độ về bên trái và phải. Lúc ấy, đầu dựng thẳng lên, hai bàn chân dẫm xuống, toàn thân dùng lực căng ra, căng khoảng 2–3 giây đồng hồ;
La Hán bối sơn—(hình 1-13) từ khởi thế “hợp thập”. Hai tay vừa tách ra, vừa duỗi ra về phía sau thân, đồng thời hai lòng bàn tay cũng chuyển hướng về phía sau. Khi hai tay đến chỗ bên thân, thì cổ tay dần dần cong lên; sau khi về phía sau thân, cổ tay thành góc 45 độ. Khi tay đã đến vị trí rồi, thì đầu dựng thẳng lên, hai bàn chân dẫm xuống, toàn thân dùng lực căng ra. (Thân thể thẳng đứng, không được nghiêng về trước; dụng lực chỗ trước ngực), căng khoảng 2–3 giây đồng hồ, rồi lập tức thả lỏng toàn thân. Thu tay về ‘hợp thập’ trước ngực.
Kim Cang bài sơn—Từ khởi thế “hợp thập”. Hai tay vừa tách ra, vừa đẩy về phía trước với bàn tay dựng lên, ngón tay chỉ lên trên, cao bằng vai. Khi cánh tay duỗi thẳng, đầu dựng thẳng lên, hai bàn chân dẫm xuống, toàn thân dùng lực căng ra (hình 1-14). Căng khoảng 2–3 giây đồng hồ, rồi lập tức thả lỏng toàn thân; hai tay hợp thập.
Điệp khấu tiếu phúc—Từ khởi thế “hợp thập”. Hai tay chầm chậm hạ xuống, lòng bàn tay xoay hướng vào trong bụng. Khi đến chỗ bụng dưới, hai tay tạo thành trạng thái bắt chéo xếp chồng lên nhau (hình 1-15). Nam tay trái ở trong, nữ tay phải ở trong. Khoảng cách giữa hai tay, giữa tay và bụng dưới ước khoảng 3 cm. Thời gian xếp tay bụng dưới ước chừng 40–100 giây đồng hồ.
Thu thế: hay tay kết ấn (hình 1-16).
2. Pháp Luân Trang pháp
Công lý: Bài Pháp Luân Trang pháp thuộc về bài Quyết: Sinh huệ tăng lực, Dung tâm khinh thể; Tự diệu tự ngộ, Pháp Luân sơ khởi. Thế dự bị—Hai chân giang rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi cong một chút, chỗ gối và háng đặt ở trạng thái chùng, toàn thân buông lỏng, lỏng nhưng không oải. Hàm dưới hơi thu, lưỡi đặt hàm trên, hàm răng hơi hở một chút, môi miệng ngậm lại, hai mắt nhắm khẽ, nét mặt mang ý an hoà. Hai tay kết ấn (hình 2-1) Đầu tiền bão luân—Từ khởi thế “kết ấn”. Hai tay từ chỗ bụng dưới chầm chậm đưa lên, thuận theo đó mà mở “kết ấn” ra. Khi hai tay lên đến trước đầu, thì lòng bàn tay xoay hướng vào mặt, cao ngang với lông mày (hình 2-2). Mười đầu ngón tay chỉ vào nhau, khoảng cách ngón tay ước khoảng 15 cm, hay Phúc tiền bão luân—Hai tay từ Đầu đỉnh bão luân—Từ khởi thế “phúc tiền bão luân”. Giữ nguyên tư thế, chầm chậm đưa lên đỉnh đầu, thực hiện ‘đầu đỉnh bão luân’ (hình 2-4). Mười ngón của hai tay chỉ vào nhau, lòng bàn tay hướng xuống, hai Lưỡng trắc bão luân—Hai tay từ Điệp khấu tiểu phúc—(hình 2-6) hai tay từ Lưỡng thủ kết ấn, thu thế (hình 2-7). Công lý: Quán Thông Lưỡng Cực là bài Làm xong chín lần đơn thủ xung quán, hai tay lại làm tiếp đồng thời xung quán, xong chín lần nữa xong, hai tay đẩy Pháp Luân xoay chuyển bốn lần {bốn vòng} theo chiều kim đồng hồ đưa năng lượng ngoài Trước khi luyện bài Quán Thông Lưỡng Cực pháp, hãy nghĩ rằng mình là hai ống rỗng cao lớn, đỉnh thiên lập địa, cao lớn vô tỷ; Quyết: Tịnh hoá bản thể, Pháp khai đỉnh để; Tâm từ ý mãnh, Thông thiên triệt địa. Xem thêm: Tổng Hợp Hình Vẽ Mặt Trăng Khuyết Tháng 09/2021, Tổng Hợp Hình Ảnh Mặt Trăng Đẹp Nhất Thế dự bị—Hai chân giang rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi cong một chút, chỗ gối và háng đặt ở trạng thái chùng, toàn thân buông lỏng, lỏng nhưng không oải. Hàm dưới hơi thu, lưỡi đặt hàm trên, hàm răng hơi hở một chút, môi miệng ngậm lại, hai mắt nhắm khẽ, nét mặt mang ý an hoà. Hai tay kết ấn—(hình 3-1). Hai tay hợp thập—(hình 3-2). Đơn thủ xung quán—Từ khởi thế “hợp thập”. Thực hiện động tác xung lên quán xuống từng tay. Tay thuận theo khí cơ bên ngoài Song thủ xung quán—Thực hiện đơn thủ xung quán xong, tay trái (nữ tay phải) đợi ở bên trên, còn cánh tay kia đưa lên; nói cách khác, hai tay đều đặt ở vị trí xung lên trên (hình 3-5); sau đó hai tay đồng thời quán xuống (hình 3-6). Khi hai tay xung quán, lòng bàn tay hướng vào thân thể, cự ly cách thân thể không quá 10 cm. Một lần lên rồi xuống tính là một lần, cộng xung quán chín lần. Hai tay suy động Pháp Luân—Khi hoàn thành xong lần thứ chín song thủ xung quán, thì hai tay từ trên đỉnh đầu hạ xuống, qua đầu và ngực cho đến chỗ bụng dưới (hình 3-7). Khi hai tay hạ xuống đến chỗ bụng dưới rồi, hai tay xoay chuyển Pháp Luân (hình 3-8, 3-9). Nam tay trái ở trong, nữ tay phải ở trong; khoảng cách giữa tay với tay, giữa tay và bụng dưới là 2–3 cm; đẩy Pháp Luân chuyển thuận chiều kim đồng hồ bốn lần {bốn vòng}, đưa năng lượng bên ngoài Hai tay kết ấn. Thu thế (hình 3-10). Công lý: Bài Pháp Luân Chu Thiên pháp là để năng lượng của Quyết: Toàn Pháp chí hư, Tâm thanh tự ngọc; Phản bổn quy chân, Du du tự khởi. Thế dự bị: Hai chân giang rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi cong một chút, chỗ gối và háng đặt ở trạng thái chùng, toàn thân buông lỏng, lỏng nhưng không oải. Hàm dưới hơi thu, lưỡi đặt hàm trên, hàm răng hơi hở một chút, môi miệng ngậm lại, hai mắt nhắm khẽ, nét mặt mang ý an hoà. Hai tay kết ấn—(hình 4-1). Hai tay hợp thập—(hình 4-2). Vừa tách khỏi trạng thái “hợp thập” hai tay vừa hạ xuống vị trí bụng dưới trong khi lòng bàn tay hướng vào thân thể, khoảng cách giữa bàn tay và thân thể không vượt quá 10 cm. Tay vượt quá bụng dưới rồi duỗi tiếp xuống phía giữa hai chân, xuôi theo mé trong đưa xuống, đồng thời khom lưng ngồi xổm xuống (hình 4-3). Khi hai tay gần đến mặt đất, liền <đưa tay> vạch từ đầu ngón chân tới mé ngoài chân qua phía sau gót chân (hình 4-4). Sau đó, hai cổ tay hơi cong lại, từ sau gót chân dần dần dâng lên thuận theo phía sau cẳng chân (hình 4-5). Vừa đưa hai tay lên ở phía sau lưng, vừa dựng thẳng eo lưng lên (hình 4-6). Trong toàn bộ bài Pháp Luân Chu Thiên pháp, hai tay không được chạm vào bất kể chỗ nào trên thân thể, nếu không, năng lượng trên tay sẽ thu hồi vào trong Hai bàn tay ở trên vai (có khoảng cách), hai bàn tay mở ra thuận theo mặt dương của tay4 kéo theo lưng cánh tay cho đến khi hai cổ tay chéo nhau, rồi biến thành hai lòng bàn tay đối nhau, khoảng cách giữa hai tay là 3–4 cm. Lúc đó tay và Hai tay kết ấn, thu thế (hình 4-13). Công lý: Bài Thần Thông Gia Trì pháp thuộc về Quyết: Hữu ý vô ý, Ấn tuỳ cơ khởi; Tự không phi không, Động tĩnh như ý; Thế dự bị—Ngồi thế xếp bằng. Lưng ngay cổ thẳng, hàm dưới hơi thu, lưỡi đặt hàm trên, hàm răng hơi hở một chút, môi miệng ngậm lại. Toàn thân buông lỏng, lỏng nhưng không oải, hai mắt nhắm khẽ, tâm sinh từ bi, mang theo ý an hoà. Hai tay kết ấn xếp tại bụng dưới (hình 5-1), dần dần nhập tĩnh. Đả thủ ấn—Hai tay từ trạng thái kết ấn chầm chậm đưa lên, tới khi đến trước đầu, khai lỏng kết ấn, dần dần xoay bàn tay hướng lên trên. Khi hai bàn tay hướng lên trên, thì tay cũng đạt đến điểm cao nhất (hình 5-2). (Khi đả thủ ấn thì cẳng tay ‘kéo’ theo bắp tay, cũng có một lực nhất định). Tiếp theo tách hai tay ra, vừa xoay chuyển về phía sau và vạch một vòng cung trên đỉnh đầu, vừa đưa xuống, đưa một mạch cho đến chỗ trước đầu (hình 5-3). Hai khuỷu tay gần nhau hết mức, lòng bàn tay hướng lên trên, ngón tay chỉ về phía trước (hình 5-4). Sau đó hai cổ tay vừa duỗi thẳng ra, vừa chéo nhau trước ngực; nam tay trái ở ngoài, nữ tay phải ở ngoài. Khi hai tay chéo nhau xong rồi liền thành hình chữ ‘nhất’ (hình 5-5); tay ở ngoài, cổ tay xoay chuyển hướng ra ngoài, xoay lòng bàn tay hướng lên trên, vẽ nên một nửa hình tròn lớn, trở thành lòng bàn tay hướng lên trên, ngón tay chỉ về phía sau, tay có một lực nhất định; Gia trì—Tiếp theo động tác thủ ấn thực hiện ở trên. Tay trên hành động bên trong, tay dưới hành động bên ngoài. Nam tay phải dần dần xoay bàn tay, lòng bàn tay hướng vào ngực hạ xuống. Nam tay trái (nữ tay phải) đưa lên trên, đến khi hai cẳng tay chuyển đến trước ngực thành hình chữ ‘nhất’ (hình 5-10), hai tai vừa kéo mở sang hai bên, vừa bắt đầu xoay bàn tay hướng xuống dưới (hình 5-11). Khi hai tay đến bên trên chỗ đầu gối, thì tay cao bằng eo lưng, cẳng tay cao bằng lưng tay, hai tay buông lỏng (hình 5-12). Động tác này đưa thần thông bên trong thân thể ra trên tay để gia trì. Khi gia trì, lòng bàn tay cảm giác như có nhiệt, nặng, điện tê, giống như có vật, v.v.; tuy nhiên không được dùng ý truy cầu, Nam tay phải (nữ tay trái) vừa cong cổ tay chuyển lòng bàn tay hướng vào trong, vừa chuyển động về chỗ bụng dưới. Tay vào vị trí rồi, thì lòng bàn tay hướng lên trên đặt ở chỗ bụng dưới; khi làm động tác ấy thì nam tay trái (nữ tay phải) vừa đưa lên xoay về phía trước, vừa chuyển động về chỗ dưới cằm; khi đưa lên đến chỗ cao bằng vai, thì lòng bàn tay hướng xuống dưới. Tay vào vị trí rồi, thì cẳng tay cao bằng tay. Lúc ấy hai lòng bàn tay đối nhau; định lại tại tư thế đó (hình 5-13). Động tác ‘gia trì’ yêu cầu thực hiện thời gian rất lâu, tuy nhiên có thể làm được bao lâu thì hãy làm bấy nhiêu lâu. Sau đó tay ở trên vạch một nửa vòng tròn phía trước, hạ xuống chỗ bụng dưới; đồng thời tay dưới đưa lên, và xoay lòng bàn tay hướng xuống dưới, đưa lên đến chỗ dưới cằm, tay <đặt> ngang vai, hai lòng bàn tay đối nhau; định lại ở tư thế đó (hình 5-14). Yêu cầu thời gian thực hiện càng lâu càng tốt. Tĩnh công tu luyện—Thực hiện tiếp bên trên. Tay trên vạch một nửa hình tròn phía trước hạ xuống chỗ bụng dưới, hai tay tạo thành trạng thái kết ấn (hình 5-15), tiến nhập vào ‘tĩnh công tu luyện’. Nhập định thâm sâu, tuy nhiên chủ ý thức cẩn phải biết rằng mình đang luyện công. Yêu cầu thời gian càng lâu càng tốt; tuy nhiên có thể làm được bao lâu thì làm bấy nhiêu lâu. Thu thế: hai tay hợp thập xuất định, ra khỏi trạng thái ngồi xếp bằng. 1 Do đặc điểm của khẩu quyết cũng như các câu chú khác, học tiengtrungquoc.edu.vnên cần nghe trực tiếp tiếng Hán và phát âm tiếng Hán cũng như lặp theo phát âm Hán (có trong băng tiếng nhạc nền bài tập). Các phần phiên âm, phiên dịch hay diễn nghĩa sang tiếng tiengtrungquoc.edu.vnệt chỉ để tham khảo cho dễ hiểu. 2 Hình chữ nhất <—>, tức là tạo thành đường thẳng. 3 Toản không quyền: nắm thành ‘nắm đấm rỗng’, rỗng ở trong, nắm tay hờ hờ không chặt. Xem kỹ hình chụp, băng hình. 4 Dương diện, âm diện: mặt dương và mặt âm của cánh tay, mặt ngoài và mặt trong của cánh tay. luyện xong lập tức thấy toàn thân nhẹ nhàng. Thuận theo tiengtrungquoc.edu.vnệc luyện công lâu dần lên, thứ số tăng dần, thì sẽ lại cảm thấy tại giữa hai
“đầu đỉnh bão luân” hạ xuống (hình 2-5), hạ thẳng xuống hay bên đầu, lòng bàn tay hướng vào hai tai. Hai vai thả lỏng, cẳng tay dựng thẳng, khoảng cách giữa tay và tai không được gần quá.
“lưỡng trắc bảo luân” hạ xuống, liền một mạch cho đến chỗ bụng dưới, tạo thành trạng thái ‘điệp khấu’. thể. Khi luyện bộ công pháp này, thì lượng vào ra rất lớn, có thể làm cho người luyện công trong một thời gian cực ngắn đạt đến mục đích tịnh hoá thân thể; đồng thời khi xung quán cũng khai đỉnh, khi xung quán cũng khai thông đường thông đạo trong thân thể ở dưới chân. Tay thuận theo năng lượng trong thể và cơ chế ngoài thể mà thể quay hồi vào trong thể. Kết định ấn, thu thế.
thể mà động một cách từ từ, năng lượng bên trong thuận theo tay mà động (hình 3-3). Nam tay trái (nữ tay phải) đưa lên trước. Tay từ phía bên của đầu xung lên trên một cách từ từ, xung lên quá đỉnh đầu; đồng thời tay phải (nữ tay trái) quán
thể quay hồi vào trong thể. Khi đẩy Pháp Luân, không <đưa> tay ra ngoài phạm tiengtrungquoc.edu.vn bụng dưới.
4. Pháp Luân Chu Thiên pháp thể người thể người, thể người, cho phép thể người—tiểu vũ trụ—quy về trạng thái nguyên thuỷ, đạt được toàn thân khí mạch thông suốt không trở ngại. Khi luyện đến trạng thái như vậy, thì đã đạt đến tầng rất cao trong
thể. Khi hai tay đã lên đến chỗ dừng lại không thể đưa lên được nữa, hãy nắm tay không3 (hai tay không mang năng lượng) (hình 4-7); tiếp đó hai tay ‘rút ra’ từ chỗ nách, rồi bắt chéo tay trước ngực (tay nào ở trên tay nào ở dưới là tuỳ theo thói quen từng người, không có yêu cầu đặc biệt, không phân biệt nam nữ) (hình 4-8).
5. Thần Thông Gia Trì pháp có thể dùng đơn bàn cũng được; nhưng cuối cùng vẫn phải song bàn. Khi luyện năng lượng lưu thể rất lớn. Thời gian xếp bằng yêu cầu càng lâu càng tốt, có thể tuỳ theo công mà định. Thời gian càng lâu, cường độ càng lớn, công xuất ra càng nhanh. Khi luyện công không nghĩ gì hết, không có ý niệm nào cả; nhờ tĩnh mà định; tuy nhiên chủ ý thức phải biết rằng bản thân mình đang luyện công.
Hình 5-13 Hình 5-14
Hình 5-15 Hình 5-16